Tên di sản : Đền thờ Lê Đình Châu
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Di tích kiến trúc nghệ thuật
Sô quyết định : 1454/QĐBVHTTDL
Giới thiệu
Đền thờ Lê Đình Châu nằm ở một vùng đất có cảnh quan địa lý thiên nhiên đẹp đẽ, hợp với dịch lý và phong thủy trong việc kiến trúc: Phía Đông là thế đất bằng phẳng giáp với biển, theo phong thủy là nơi tụ thủy; phía Bắc là dòng sông Nhà Lê uốn khúc chầu về được quan niệm là Tả Thanh Long, phía Nam là núi Biện cúi xuống kết huyệt được coi là Hữu Bạch Hổ tạo thành thế long hổ cùng huyệt tương đăng; phía Tây có núi Ngọc Lĩnh che chắn cuồn cuộn tuôn theo mạch đất nhằm hướng Tây Bắc – Đông Nam. Xét trên cả đại cuộc thì toàn bộ khu di tích này đã được người xưa chọn hướng xây dựng phù hợp với điều kiện địa hình tự nhiên của vùng đất để hoạch định tư tưởng kiến trúc.
Trải qua năm tháng, khu di tích đền thờ đã bị đổ nát, hiện chỉ còn những hiện vật bằng đá, là những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc. Theo thứ tự từ ngoài vào, các hiện vật được phân bố, sắp xếp cụ thể như sau: Phía ngoài cùng (ở cổng ra vào), dưới chân trụ biểu là nơi đặt tượng chó đá ngồi chầu; tiếp đến ở hai bên theo trục thần đạo đặt bia phúc thần, tượng voi, tượng ngựa, tượng vũ sĩ; phía trong cùng đối diện với cổng đặt hương án, sập thờ.
Tượng chó đá: Gồm hai tượng chầu được đặt ở chân cột cổng ra vào khu di tích.Tượng được tạc trong tư thế ngồi chầu trên một bệ đá liền khối: hai chân sau gập khửu về phía bụng đỡ lấy mông, đuôi cuộn sát thân về phía lưng, cổ đeo vòng lục lạc. Dáng chó khá hiện thực: mõm thuôn nhọn, mình thon dài, chân cao, đuôi to dài. Tượng có kích thước: cao 1,15m, chỗ rộng nhất ngang thân bụng có đường kính 0,35m.
Hiện vật bên hữu:
Phúc thần bi ký: được tạo dáng vuông bốn mặt, có kích thước chiều cao 2m, rộng 0,65m. Mặt bia chính quay về hướng nam. Bia được cấu trúc thành 3 phần gồm đế bia, thân bia và mũ bia.
Tượng ngựa: được tạo tác theo tư thế chầu đứng trên bệ đá hình chữ nhật dài 1,7m, rộng 0,54m. Toàn bộ thân ngựa có chiều dài từ đầu đến đuôi là 1,6m, chân nở rộng 0,47m, đầu ngẩng cao 1,30m, yên cương cao 0,90m. Ngựa được tạo tác khá hiện thực: đầu cúi xuống, mõm có dây cương, trán chạm biển phù hiệu nổi, mũi chạm gờ chỉ, mắt nhìn thẳng, tai dựng đứng, cổ đeo 8 quả lục lạc, ở giữa đeo chuông, lưng yên có dây cương gắn các núm khuy.
Tượng Vũ Sỹ (Mỹ Vũ): Được tạo tác trang phục võ quan giáp trụ theo đúng thời Lê – Trịnh, cao 1,6m, rộng 0,55m không kể đế. Đầu đội mũ tròn, phía trước mũ và hai bên mang tai có chạm vân mây nổi nhẹ, gần đỉnh mũ được gồ lên, giữa đỉnh có gù cao chóp hình côn khoảng 5cm. Phần hai bên vành mũ vòng phía sau có lá chắn che rủ xuống tạo 2 nếp lượn chéo của giáp được diễn tả chồng lên nhau, kéo xuống vai đăng đối hai bên tạo thế khỏe làm nổi rõ khối mặt võ sĩ đường bệ râu dài, có ria méo chạm nổi. Từ phía mặt tượng, mũ chiến được tạo thành 3 lớp theo hình côn nhỏ dần lên cao, khối mặt khỏe chạm nổi khối mặt mũi, mồm cân đối, nét mặt trang nghiêm, trầm tư của một võ quan đứng tuổi. Phần thân tượng thẳng đứng, tay phải bằng kiếm, tay trái úp lòng bàn tay vào ngực theo kiểu thề nguyện trung thành. Áo giáp được diễn tả 2 lớp có mép viền lớn có vẩy lục lăng. Quần giáp là những mảng rộng khỏe có lá tọa che phía trước. Quần giáp cũng hai lớp rồi mới đến quần triều phục thu gọn dần, sau cùng là giày chiến kiểu hia cao, đường bệ đứng trên khối đá vuông.
Tượng Vũ Sĩ (Đốc Vũ): có kích thước giống tượng Mỹ Vũ được tạo tác theo tư thế đứng chầu, hai tay cầm chùy vắt chéo qua người, đầu đội mũ trụ, y phục áo giáp được diễn tả hai lớp, lớp ngoài có vẩy lục lăng, quần giáp là những mảng rộng khỏe, có lá tọa che phía trước. Mặt tượng diễn tả nghiêm nghị, để râu dài, chân đi hia chiến, đứng trên khối đá vuông.
Hiện vật bên tả:
Tượng Vũ Sĩ (Thanh Vũ): có kích thước giống hai tượng trên, được tạo tác theo tư thế đứng chầu, tay trái cầm bát xà mâu, tay phải úp lòng bàn tay vào ngực theo kiểu thề nguyện trung thành; đầu đội mũ trụ, hai bên vành mũ ở phía sau có lá chắn che rủ xuống sát lưng. Mặt tượng diễn tả nghiêm nghị, để râu dài. Y phục: áo tượng được diễn tả hai lớp được trang trí vẩy lục lăng, ở trước ngực được trang trí hoa văn mặt hổ phù. Ngăn cách giữa áo và quần là đai lưng có để tua ra phía trước. Quần giáp là những mảng rộng cũng tạo thành hai lớp có lá tọa che phía trước được chạm hình răng cưa. Phần còn lại chạm hoa văn vảy cá ở phái trên và phần dưới để trơn. Chân đi hia chiến cao đường bệ, đứng trên khối đá vuông.
Tượng Vũ Sĩ (Sĩ Vũ): được tạo tác theo tư thế đứng chầu, hai tay cầm chùy, cán chùy chiến sát đất, đầu quả chùy áp sát má. Đầu đội mũ trụ hình côn, trang trí hoa văn hình vân mây lượn, phần 2 bên mũ vòng phía sau có lá chắn che rủ tạo thành hai lớp chạy xuống trùm qua cổ, mặt tượng diễn tả nghiêm nghị, râu để dài. Áo giáp trụ được diễn tả hai lớp, lớp ngoài ở hai tay chạm hình vân mây nổi, trước ngực chạm nổi hình lục lăng lớn. Phía trong là các bức chạm hình lục lăng nhỏ. Ngăn cách giữa áo và quần là đai lưng thắt chéo để tua ra phía hai bên. Lớp trên của quần được chạm hoa văn hình vẩy cá, phần dưới để trơn. Chân đi hia chiến cao, đứng trên bệ đá vuông.
Tượng voi: kích thước dài 1,6m, rộng 0,62m, được tạo tác theo tư thế đứng chầu. Đầu ngẩng cao, vòi rủ xuống, hai ngà quặp lấy vòi, mắt nhìn thẳng, tai to rủ xuống, cổ đeo vòng lục lạc,ở giữa là quả chuông to, lưng được tạo tác bành. Toàn thân tượng đứng trên khối đá vuông.
Sập đá, ngai thờ và hương án:
Sập đá: đặt ở phía trong cùng, được cấu trúc thành 2 lớp: lớp dưới cùng gồm 12 khối đá được chạm khắc gờ chỉ ở các đường viền ghép lại với nhau tạo thành mặt sập có kích thước rộng vuông 4 mặt, chiều cao 0,5m. Lớp thứ hai nằm trên lớp thứ nhất là một khối đá vuông liến khối có kích thước chiều dài 1,9m, rộng 1,37m, dày 0,2m. Mặt sập để phẳng, xung quanh mặt được chạm gờ chỉ theo kiểu vỏ măng, chân sập chạm vuông cạnh.
Ngai thờ: là một khối đá liền khối, được chia thành 2 phần: phần bệ được tạo tác theo kiểu chân quỳ, chiều cao 0,35m, chiều dài 0,6m, chiều rộng 0,5m. Trang trí hoa văn ở bốn mặt xoi gờ chỉ kép thành những đường cong uốn lượn; tiếp đến là đai bệ chạm nổi dày 2cm, cao 3cm theo kiểu xoi chỉ mây, xung quanh chạm hình hoa chanh. Phía trên cùng là thân ngai: được chạm lộng, tạo thành long ngai cao 0,59m, rộng 0,54m. Trang trí hoa văn: phần tay ngài được chạm hai đầu rồng theo lối tả thực; lòng ngài và lưng ngài đều chạm nổi hình rồng, phượng, dây leo và vân mây.
Hương án chính (ở giữa): có kích thước dài 1,29m, rộng 0,78m, cao 1,15m. Là một khối đá liền được chạm khắc hoa văn cả 4 mặt: hai mặt trước và sau giống nhau. Thân hương án, ở phía trên cùng xung quanh sát mặt hương án được chạm nổi gờ chỉ vuông góc, bề mặt chạm các đường triện chạy xung quanh; phía dưới được chạm lõm vào trong, bề mặt chạm hình hoa chanh có hai cánh dài, hai cánh ngắn, xen lẫn là 4 cánh ghéo, 4 cánh đơn, ở giữa bông hoa có nhụy tròn chạm nét kép. Phần vai dọc và ngang là các đường gờ chỉ nổi kép song song thành hai cặp. Phần dạ được tạo thành các ô hộc hình vuông và hình chữ nhật đối xứng nhau. Các ô nằm ngang trang trí chữ Thập kép; các ô đứng trang trí cánh lá uốn lượn hình vân mây kiểu phượng hóa; ô giữa chạm nổi hình mặt hổ phù trong vân mây. Ở cả mặt trước và mặt sau đều có đề tài giống nhau.
Hương án (bên hữu – bên tả): có kích thước dài 1,43m, rộng 0,43m, cao 1,15m. Kiểu dáng giống hương án ở giữa. Trang trí hoa văn ở hai hương án này đơn giản hơn. Đường viền sát mặt chạm vuông cạnh, phía dưới chạm lõm vào. Ngăn triện chạy xung quanh. Dạ hương án được chia thành 3 ô hộc: ở hai bên đối xứng nhau chạm hình chữ Thọ nổi, ô giữa là hoa văn hoa chanh chạm nổi nét kép.